Bệnh tả do vi khuẩn Vibrio cholerae gây ra, dễ lây lan qua đường tiêu hóa. Đây là vi khuẩn hình cong như dấu phẩy, có một roi cực ở một đầu, khả năng di chuyển linh hoạt, tồn tại lâu dài trong môi trường nước. Do đó, nhiều ca nhiễm bệnh tả thường do sử dụng nguồn nước, thực phẩm nhiễm vi khuẩn.
Khi nhiễm vào cơ thể, vi khuẩn tả có thể gây bệnh, biểu hiện bằng các triệu chứng: đầy bụng và sôi bụng, tiêu chảy phân lỏng sau đó chỉ toàn nước, tiêu chảy liên tục, nhiều lần. Người bệnh thường buồn nôn và nôn kéo dài hàng giờ, không đau bụng, không sốt, người mệt lả, có thể bị chuột rút, huyết áp hạ, tiểu tiện ít đến vô niệu, tay chân lạnh.

Tả có thể biến chứng mất nước, gây sụt cân trên 10% trọng lượng cơ thể. Mất nước kéo dài gây mất cân bằng điện giải, rối loạn nhịp tim và có thể dẫn đến sốc giảm thể tích và tử vong. Ngoài sốc và mất nước nặng, tả còn gây hạ đường huyết, đặc biệt ở trẻ em, dẫn đến co giật, bất tỉnh. Nếu không được điều trị kịp thời, người bệnh có thể tử vong chỉ trong vài giờ, tỷ lệ tử vong lên đến 50% ở ca nặng.
Khoảng 75% ca nhiễm không có triệu chứng và đào thải vi khuẩn ra môi trường trong 7-14 ngày, là nguồn lây âm thầm, tăng khả năng bùng phát dịch tả.
Nhóm người có nguy cơ cao nhiễm vi khuẩn tả gồm: người sống cùng, ăn uống, sinh hoạt gần gũi với bệnh nhân; những khu vực có nhà tiêu không hợp vệ sinh, xả thải trực tiếp ra mương, ao, hồ, sông, suối; khu vực cửa sông, ven biển, vùng ngập lụt và sau ngập lụt, nơi môi trường ô nhiễm... Ngoài ra, những người có thói quen ăn rau sống, thủy hải sản chưa được nấu chín kỹ cũng có khả năng mắc tả.

Để phòng bệnh, Bộ Y tế khuyến cáo người dân rửa tay thường xuyên bằng xà phòng, "ăn chín uống sôi", bảo đảm vệ sinh thực phẩm và nguồn nước. Chủ động theo dõi sức khỏe sau khi đi từ vùng dịch về. Nếu nôn, tiêu chảy nhiều, cần đến ngay cơ sở y tế, không tự ý điều trị tại nhà để tránh biến chứng nguy hiểm.