Thăng Long - Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam, một mảnh đất địa linh nhân kiệt. Từ khi hình thành cho đến nay, nơi đây được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau. Cụ thể, các tên gọi ấy chia thành hai loại là chính quy và không chính quy. Tên gọi chính quy của Hà Nội là những tên gọi được ghi chép trong sử sách do các triều đại phong kiến, Nhà nước Việt Nam chính thức đặt tên. Các tên này được sắp xếp theo thứ tự thời gian như sau.
- Long Đỗ: Theo truyền thuyết, vào năm 866 lúc Cao Biền mới đắp thành Đại La đã thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Từ đó, trong sử sách thường gọi nơi đây là đất Long Đỗ.
- Tống Bình: Là tên trị sở của quân đô hộ phương Bắc dưới thời nhà Tùy (581 - 618), Đường (618 - 907). Trước đây, trị sở của chúng đặt ở vùng Long Biên (nay là Bắc Ninh) nhưng đến đời Tùy thì mới chuyển đến Tống Bình.

- Đại La: Đại La hay Đại La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng để bao bọc lấy kinh đô. Theo kiến trúc ở thời xưa, kinh đô thường có "Tam trùng thành quách". Ở bên trong cùng là Tử Cấm thành (bức tường thành màu đỏ tía), nơi ở của vua và hoàng tộc. Ở giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành. Đến năm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Đại La thành rộng hơn, vững chãi hơn và từ đó, thành này gọi là thành Đại La.
- Thăng Long (rồng bay lên): Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành tên gọi này là vào "Mùa thu tháng 7 năm Canh Tuất (năm 1010) vua Lý Công Uẩn từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành. Bỗng có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân sự kiện đó liền đổi tên thành gọi là thành Thăng Long".
- Đông Đô: Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng viết: "Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (năm 1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô". Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sứ thần nhà Nguyễn có ghi chú thích rằng: "Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hóa là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô".
- Đông Quan: Tên gọi này do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm ý kỳ thị kinh đô của Việt Nam. Nó chỉ được ví là "cửa quan phía Đông" của nhà nước phong kiến Trung Hoa. Ở sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh sau khi đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành Đông Đô đã đổi tên thành Đông Quan.

- Đông Kinh: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: "Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Mùi (năm 1427), vua (tức Lê Lợi - TM) từ điện tranh ở Bồ Đề vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15, vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hoá có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh".
- Bắc Thành: "Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787 - 1802 - TM) đóng đô ở Phú Xuân (tức Huế - TM) nên gọi Thăng Long là Bắc thành", theo Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Đường phố Hà Nội - H. 1979, tr12.
- Thăng Long (thịnh vượng lên): Trong sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: "Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân, không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi.
Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong nhân dân toàn quốc nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long. Nhưng đổi chữ 'long' là rồng thành chữ 'long' là thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ 'long' là 'rồng'. Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ. Vì vua không đóng đô ở Thăng Long mà hoàng thành Thăng Long lại lớn rộng quá".

- Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội có ghi rằng: "Năm 1831, vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hoà, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội". Và từ đó cho tới nay, kinh thành nước Việt Nam giữ nguyên tên là Hà Nội.
Ngoài ra, Hà Nội còn có một số tên không chính quy như Trường An (Tràng An), Phượng Thành (Phụng Thành), Long Biên, Long thành, Hà thành, Hoàng Diệu,... Những cái tên không chính quy này thường được người đời sử dụng khá linh hoạt trong ca dao, văn học.