Thơ và truyện ngắn của tác giả Phạm Phương Liên

Phạm Phương Liên
Nhà giáo Phạm Phương Liên - Hiệu trưởng trường Tiểu học Tô Hiến Thành (Hà Nội) là một nhà giáo vừa tận tụy với nghề, đồng thời cũng là một người “yêu chữ”.

Với mong muốn gieo những hạt mầm đẹp nơi tâm hồn trong veo của trẻ thơ cũng như giữ lại những trang ký ức lấp lánh của tuổi thơ mình, cô đã cầm bút và miệt mài sáng tác. Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc thơ và truyện ngắn trong tuyển tập "Giấc mộng hoa niên" của nhà giáo Phạm Phương Liên!

Nhà giáo Phạm Phương Liên
Cô giáo Phạm Phương Liên

Chuyện của bà

Bà hay kể chuyện xưa,

Những ngày mưa bom bão,

Đói nghèo mãi đeo bám,

Lòng người vẫn kiên gan.

 

Lũ tràn về khắp chốn,

Nước dâng ngập cả đồng,

Bà gánh con, gánh đồ,

Lưng còng chạy lũ xa.

 

Bà hay kể những ngày,

Bố cháu đi lính chiến,

Mỏi mòn bao tháng năm,

Chờ mong bóng bố về…

 

Cháu đi xa lâu ngày,

Về ôm bà thủ thỉ,

Vẫn chuyện cũ không thôi,

Mà nghe lòng xao xuyến.

 

Bà ơi, sao bà kể?

Kể mãi, chẳng hề nguôi,

Cháu thuộc rồi, vẫn thích,

Sợ mai chẳng còn bà…

Tháng 8/2025

Bìa tuyển tập
Bìa tuyển tập "Giấc mộng hoa niên"

Vòng tay bà là chốn bình yên

Có bà, là có hạnh phúc. Và trong miền ký ức thơ ấu của mỗi người, hình bóng bà luôn là một mảnh ghép dịu dàng, tĩnh lặng, vẽ nên bức tranh đẹp nhất của tuổi thơ.

Tuổi thơ tôi trôi qua êm đềm trong vòng tay ân cần, che chở của bà nội. Khi tôi tròn ba tuổi, mẹ sinh em bé, bà sợ tôi tủi thân nên mỗi tối đều ôm tôi vào lòng ru ngủ. Giọng bà trầm ấm, dịu hiền như tiếng suối róc rách, dẫn tôi vào thế giới thần tiên lung linh sắc màu, nơi có những câu chuyện cổ tích huyền ảo chưa bao giờ làm tôi chán.

Những câu chuyện của bà cứ thế đọng lại trong tôi, như ánh trắng soi rọi qua những đêm dài tuổi thơ. Đó là câu chuyện người anh tham lam chiếm đoạt gia tài, để lại cho em trai duy nhất một túp lều và cây khế sai trĩu quả, là chuyện cô Tấm xinh đẹp, hiền lành, chịu thương chịu khó vượt qua bao đắng cay để tìm được hạnh phúc, hay câu chuyện cậu bé Tích Chu mải rong chơi mà quên đi người bà tần tảo, rồi phải vượt ngàn dặm xa xôi tìm nước thần cứu bà khỏi lưỡi hái tử thần. Mỗi đêm, sau khi vội vàng hoàn thành bài vở, tôi lại háo hức chui vào chăn, đợi bà kể chuyện. Nằm bên bà, tôi cảm thấy mình như được cuốn vào một lớp chăn ấm nồng tình thương, nơi chẳng có lo âu, chẳng có muộn phiền.

Bà không chỉ là người kể chuyện mà còn là kho tàng những câu đố dân gian vô cùng thú vị khiến tôi trầm trồ khâm phục. Có những lần bí quá, vò đầu bứt tai vẫn không tìm ra đáp án, bà liền gợi ý, làm tôi thích thú reo lên, lòng ngập tràn vui sướng.

Không chỉ kể chuyện cổ tích, bà còn thường nhắc về những tháng ngày chiến tranh gian khó. Bảy người con lần lượt chào đời trong cảnh thiếu thốn. Ông tôi công tác xa nhà, bà một mình tần tảo sớm hôm, vừa lo ruộng vườn, vừa nuôi dạy con cái, lại phụng dưỡng mẹ chồng. Bố tôi là con cả, chịu thương chịu khó, biết nhà đông con, bố luôn cố gắng cùng bà làm lụng nuôi các em. Bữa cơm ngày đói thiếu thốn vô cùng. Những bữa cơm độn sắn, độn rau má, hay chỉ toàn nước canh lõng bõng là điều thường nhật. Cô út tôi lúc ấy mới lên ba, đến bữa nhìn vào nồi cơm độn sắn mà bật khóc, nhất quyết không chịu ăn. Còn bố tôi, người anh cả thương các em, lúc nào cũng nhường phần cơm trắng, chỉ ăn phần sắn cứng, dưới ánh mắt xót xa của bà. Những ngày vui hiếm hoi là những lần ông được nghỉ phép về thăm nhà, mang theo vài lạng mỡ lợn, ít miếng đậu phụ đổi từ tem phiếu mà ông dành dụm được. Chỉ vậy thôi mà bữa cơm hôm ấy như có cả ánh nắng rạng rỡ, chan chứa tiếng cười.

Khi bố tôi tròn mười tám tuổi, bố nhận lệnh nhập ngũ. Bà kể rằng ngày bố khoác ba lô, bà đứng nhìn theo bóng lưng gầy gò của con trai mà lòng đau như cắt. Bà cầu nguyện tổ tiên phù hộ để bố được bình an trở về. Nhưng rồi chiến tranh kéo dài, ngày hòa bình lập lại, con trai của những gia đình khác trong làng lần lượt trở về, riêng bố vẫn bặt vô âm tín. Bà khóc hết nước mắt, cứ ngỡ rằng bố đã hy sinh. Rồi một ngày, bố trở về, đứng trước cổng nhà, gầy guộc và đen nhẻm. Bà mừng mừng, tủi tủi ôm chầm lấy bố tôi khóc nấc lên rồi vội vàng thắp nén hương, cảm ơn các cụ tổ tiên phù hộ.

Rồi bà kể chuyện năm lũ lụt, khi chú tư vừa lọt lòng. Cả nhà phải gồng gánh chạy nạn, chú tư bé bỏng nằm trong thúng, khóc lả đi vì khát sữa. Bố tôi và chú hai mỗi người một đôi quang, vừa gánh đồ đạc và các vật dụng cần thiết, vừa dắt díu những đứa em. Năm ấy, có một người phụ nữ trong làng cũng mới sinh con trong cảnh nước lũ cuồn cuộn, bà đặt tên đứa bé là Lụt như một dấu ấn khó quên của thời gian.

Những câu chuyện của bà, những nỗi niềm chất chứa nơi khóe mắt đầy nếp nhăn ấy, càng khiến tôi thương bà nhiều hơn. Cả tuổi thơ tôi lớn lên trong vòng tay bà, được bà che chở và bao dung. Có nhiều lần nghịch ngợm bị mẹ mắng, tôi thường trốn vào trong lòng bà, bởi vì tôi biết, bà chính là “bức tường thành” kiên cố, là nơi ẩn náu an toàn nhất. Dù mẹ có tức giận đến đâu, chỉ cần bà nhẹ nhàng khuyên nhủ, mọi cơn giận cũng nguôi đi rất nhanh. Nhưng bà không chiều chuộng tôi quá mức, bà luôn dạy tôi phải sống tử tế, cố gắng học hành chăm chỉ để không phụ công cha mẹ.

Vậy mà có năm bà tôi ốm nặng, bà nằm trên giường cả tháng và hầu như không ăn uống được gì nhiều. Bà gầy rộc đi trông thấy. Bố và các cô các chú tôi xót ruột phải nhờ cô y tá trong làng đến tiếp nước cho bà. Bố không cho tôi ngủ cùng bà vì sợ tôi còn nhỏ, không biết cách chăm nom. Bố đặt ghế ngủ ngay cạnh giường bà để ngả lưng và tiện chăm sóc. Lúc đó tôi thường chờ bố thiu thỉu ngủ, lén trèo lên giường nằm cạnh bà mà lòng nặng trĩu, bà tôi biết vậy thì âu yếm mắng: “Con mương con này, không sợ bà lây bệnh cho à?”. Mắt ngân ngấn nước, tôi ôm chặt bà không trả lời, chỉ thầm mong bà thật nhanh khỏi bệnh.

Ngày tôi có giấy báo đỗ vào đại học, bà mừng lắm. Bà bảo tôi là niềm tự hào của bà. Nhưng từ ngày tôi đi học xa, quãng đường gần trăm cây số khiến những lần về thăm nhà càng thưa dần. Có lần em tôi gọi điện kể rằng năm ấy dịch bệnh hoành hành, gà chết nhiều, bà lại mất cả đàn gà mà bà nâng niu, chăm bẵm bấy lâu, tôi lại càng thương bà nhiều hơn. Những lần hiếm hoi về thăm nhà, tối đến, tôi vẫn nằm bên bà như thuở nhỏ, nũng nịu đòi bà kể chuyện. Bà lại cười hiền từ, bảo tôi: “Con bé lớn bằng ngần này, sắp lấy chồng đến nơi rồi mà vẫn như trẻ con thế!”.

Ra trường, tôi lập gia đình và có công việc ổn định. Nhiều lúc tôi muốn bù đắp cho bà nhưng đó cũng chính là khi tôi hiểu, trải qua những năm tháng khó khăn, đói khổ khiến bà tôi cần kiệm đến mức nào. Áo quần tôi mua, bà chẳng dám mặc, mà thường cất đi để dành, sợ cháu buồn mỗi lần tôi về bà mới mang ra khoác nên lúc nào tôi cũng thấy chúng vẫn còn mới tinh. Ai hỏi đến là bà khoe được cháu gái mua cho một cách đầy tự hào, rồi dẫn vợ chồng tôi và các chắt đi thăm các cô dì chú bác trong họ hàng. Tôi đã đi qua bao miền đất, thưởng thức đủ sơn hào hải vị nhưng chẳng bữa cơm nào có thể sánh được với mâm cơm canh cua, cà pháo giản dị mà ấm áp của bà.

Tôi luôn mang trong kí ức về hình ảnh của bà như một bến đỗ bình yên và vững chắc. Bà đã gieo vào khu vườn tuổi thơ tôi những mầm xanh tươi tốt. Tôi sẽ mang theo những câu chuyện của bà để kể lại cho thế hệ sau, để hành trình yêu thương của bà tôi mãi được tiếp nối, chẳng lụi tàn.

(Trích từ tập truyện "Giấc mộng hoa niên")

Đọc báo điện tử Thiếu niên Tiền phong và Nhi đồng nhanh chóng, thuận tiện và an toàn hơn trên các thiết bị di động với Ứng dụng TNTP&NĐ Online

Tải ngay ứng dụng TNTP&NĐ Online TẠI ĐÂY

Bạn đang đọc bài viết Thơ và truyện ngắn của tác giả Phạm Phương Liên tại chuyên mục Sáng Tác của Báo Thiếu niên Tiền phong và Nhi đồng. Mọi thông tin góp ý và chia sẻ, xin vui lòng gửi về hòm thư banbientap@thieunien.vn.

Bài liên quan

Món lẩu cá má làm

Tui thường phụ má làm bếp khi rảnh rỗi. Hồi lớp một. lớp hai thì là vo gạo, lặt rau… ...

Đèn lồng bưởi

Đêm trung thu tôi cầm chiếc đèn lồng bưởi của Hạng đi dưới ánh trăng, thứ ánh sáng mát ...

Bài Sáng Tác khác

Những chuyện xa lạ

Đến mùa đông, cây liễu rụng hết cả tóc. Anh Sơn Dương sống ở triền núi lạnh đen sẫm những hốc đá hút gió cứ hú lên suốt ngày suốt đêm.

Ngày bão đi qua

Dưới gốc cây cau cao cao, có một giàn trầu nhỏ mọc quấn quýt bên hàng rào tre. Giàn trầu được bà cụ trồng từ cuối mùa đông năm ngoái. Đó là một giống trầu mới, bà cụ mua được từ làng bên, mọc khỏe, bám đất là leo rất nhanh. Trầu ưa nắng gió, thích trò chuyện cùng chim sơn ca và bướm vàng mỗi ngày.

Truyện ngắn: Ông nội và ông ngoại

Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ hàng đầu của Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX, sức ảnh hưởng của Xuân Quỳnh lớn tới nỗi Google từng vinh danh bà trên trang chủ của họ vào năm 2019.

Người ở

Hè này, bố đi công tác xa, mẹ phải thuê người giúp việc. Đó là Tuyết, chỉ trạc tuổi tôi nhưng siêng cực kỳ. Thấy tôi hay đi học thêm, nó có vẻ ngạc nhiên lắm. Nhất là khi thấy tôi xin mẹ tiền học, nó cứ đứng ngẩn người nhìn. Có lần, nó hỏi:

Chú chim cu cườm ở lưng đồi

Gia đình Trà My đi nghỉ hè ở một điểm du lịch, nơi có những ngôi nhà lá nhỏ nép cùng cây rừng bên sườn đồi trên một hòn đảo nhỏ. Nơi đây thật tĩnh lặng êm đềm nên một âm thanh nhỏ nhất đều lảnh lót vang vọng tới ngút ngàn rừng cây.

Mùa hè của em

Dưới sự hướng dẫn của cô giáo chủ nhiệm, bạn Phạm Quốc Đạt (lớp 3A, trường Tiểu học Đồng Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh) đã viết được một bài thơ rất dễ thương có tên là “Mùa Hè của em”.